Đặc điểm Ngữ tộc Tiểu Á

Âm vị học

Về âm vị học, các ngôn ngữ Tiểu Á giữ gìn một số đặc điểm đã mất đi trong những nhánh Ấn-Âu khác. Trước hết, các ngôn ngữ Tiểu Á lưu giữ phụ âm thanh quản thừa hưởng từ ngôn ngữ Ấn-Âu nguyên thuỷ trong những từ như ḫāran- "đại bàng" tiếng Hitti (cùng gốc với ὄρνῑς (órnīs) "chim" tiếng Hy Lạp, erẽlis "đại bàng" tiếng Litva, ǫrn "đại bàng" tiếng Bắc Âu cổ; bắt nguồn từ *h₃éron- trong PIE) hay 𐊜𐊒𐊄𐊀 χuga "ông" tiếng Lycia (so với avus "ông" tiếng Latinh, awis "chú" tiếng Phổ cổ, 𐌰𐍅𐍉 (awō) "bà" tiếng Goth; *h₂éwh₂s trong PIE). Ba loạt phụ âm mặt lưỡi của PIE vẫn giữ nguyên là ba loạt trong ngôn ngữ Tiểu Á nguyên thuỷ, phát triển theo ba cách khác nhau trong tiếng Luwia: *kʷ > ku-, *k > k-, *ḱ > z-.[5] Trái lại, hệ thống âm tắc phân biệt về ba phương diện trong PIE (ví dụ, *p, *b, *bʰ) trở thành sự phân biệt fortis-lenis đơn giản hơn trong ngôn ngữ Tiểu Á nguyên thuỷ (/p/-/b/). Trong tiếng Hitti và Luwia hình nêm, phụ âm tắc lenis được biểu thị bằng một ký tự phụ âm vô thanh (ví dụ, p) còn âm tắc fortis được viết bằng hai ký tự phụ âm vô thanh (ví dụ, pp). Đến thiên niên kỷ 1, hiện tượng xát hoá phụ âm lenis xuất hiện trong tiếng Lydia, tiếng Lycia, tiếng Caria.[6]

Âm thanh quản *H trong ngôn ngữ Tiểu Á nguyên thuỷ phát triển thành âm kép -ḫḫ- hay âm đơn -ḫ- trong tiếng Hitti. Âm vị hậu thân của *H được ước đoán là âm xát yết hầu trong Hitti, âm xát lưỡi gà trong tiếng Luwia (dựa trên bằng chứng từ mượn tiếng Ugarit và tiếng Ai Cập). Âm thanh quản mất đi trong tiếng Lydia, trở thành 𐊐 (χ) trong tiếng Lycia, thành 𐊼 (k) trong tiếng Caria (cả 𐊐 và 𐊼 đều đọc là [k]). Bản chất âm vị học của *H có lẽ là âm xát yết hầu, âm xát lưỡi gà hay âm tắc lưỡi gà.[7][8]

Động từ

Hình thái học các ngôn ngữ Tiểu Á có phần đơn giản hơn so với các ngôn ngữ Ấn-Âu cổ khác. Hệ thống động từ phân biệt giữa hai thì (quá khứ và hiện tại-tương lai), hai thái (chủ động và trung-bị động), hai thức (thức trần thuậtthức mệnh lệnh, vắng mặt thức cầu khẩnthức mong mỏi hiện diện trong ngữ tộc Tochari, tiếng Phạn, tiếng Hy Lạp cổ đại). Động từ trong các ngôn ngữ Tiểu Á thường chia thành hai "lớp": lớp mi và lớp ḫi, đặt tên theo hậu tố biểu thị thức trần thuật thì hiện tại ngôi thứ nhất số ít trong tiếng Hitti. Trong khi lớp mi có dạng đồng nguyên trong các ngôn ngữ Ấn-Âu khác, lớp ḫi lại là đặc trưng của ngữ tộc này, có lẽ bắt nguồn từ một hình vị láy hay nhấn mạnh nào đó trong ngôn ngữ Ấn-Âu nguyên thuỷ.[5]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ngữ tộc Tiểu Á http://linguistics.ucla.edu/people/Melchert/melche... http://www.linguistics.ucla.edu/people/Melchert/Th... //www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4112997 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/22923579 http://language.psy.auckland.ac.nz/files/gray_and_... //dx.doi.org/10.1126%2Fscience.1219669 http://glottolog.org/resource/languoid/id/anat1257 https://books.google.com/books?id=QgA3DwAAQBAJ&pg=... https://books.google.com/books?id=pgQowuFZeLUC&lpg... https://books.google.com/books?id=pgQowuFZeLUC&lpg...